Mô tả vũ khí S-75_Dvina

Học thuyết tổ chức của Liên Xô

Trận địa SAM-2 tại miền Bắc Việt Nam. Chú ý tới mô hình lục giác khiến các trận địa dễ bị phát hiện từ trên không, sau này người Việt Nam đã bỏ kiểu bố trí đó vì lý do trênKhông ảnh một trận địa SAM-2 tại Cuba do máy bay trinh sát của Không lực Hoa Kỳ chụp trong cuộc khủng hoảng tên lửa năm 1962

Liên Xô sử dụng một tiêu chuẩn cơ cấu tổ chức khá tốt cho các đơn vị SAM-2. Các quốc gia khác có triển khai SAM-2 có thể sửa đổi cơ cấu này. Nói chung, SAM-2 được tổ chức theo cơ cấu trung đoàn với từ ba đến bốn tiểu đoàn hỏa lực và một tiểu đoàn kỹ thuật. Sở chỉ huy trung đoàn sẽ căn cứ thông tin tình hình đối phương từ mạng radar cảnh giới quốc gia kết hợp với các radar cảnh báo sớm của mình để chỉ đạo hoạt động tác chiến của các tiểu đoàn hỏa lực. Căn cứ thông tin do mạng thông tin trung đoàn cung cấp, các tiểu đoàn hỏa lực với 6 bệ phóng và 6 đạn thường trực sẽ thực hành tác chiến với các radar sục sạo mục tiêu, radar ngắm bắn và radar điều khiển của riêng mình phóng đạn đến mục tiêu.

Bố trí trận địa

Mỗi tiểu đoàn thông thường có 6 bệ phóng bán cố định đơn thân cho các tên lửa V-750 của họ được bố trí xấp xỉ 60-100 mét cách nhau theo mô hình hoa sáu cạnh với các radar và các hệ thống dẫn đường được đặt ở trung tâm. Kiểu hình hoa này khiến các trận địa rất dễ bị nhận biết từ các ảnh trinh sát trên không. Thông thường sáu tên lửa của cơ số đạn thứ hai được cất giữ trên những xe đầu kéo gần trung tâm trận địa. Tùy theo mức độ tác chiến và cường độ hỏa lực cần huy động, người ta có thể tăng thêm đạn V-750 cho một tiểu đoàn thêm một đến hai cơ số.

Tên lửa

V-750
Đạn tên lửa V-750V trong tư thế lắp ráp
LoạiTên lửa đất đối không
Nơi chế tạo Liên Xô
Lược sử chế tạo
Các biến thểV-750, V-750V, V-750VK, V-750VN, V-750M, V-750SM, V-750AK
Thông số (V-750[15])
Đường kính700 mm
Đầu nổFrag-HE
Cơ cấu nổ
mechanism
Cưỡng bức hoặc tự động

Chất nổ đẩy đạnNhiên liệu rắn cho tầng khởi động, nhiên liệu lỏng cho tầng hành trình.
Tầm hoạt động30 kilômét (19 mi) - 45 kilômét (28 mi) (tùy phiên bản)
Độ cao bay25.000 mét (82.000 ft)
Thời gian đạt vận tốc tối đa5 s phóng, sau đó 20 s duy trì
Hệ thống chỉ đạodẫn đường điều khiển radio
Độ chính xác65 mét
Nền phóngĐơn thân, lắp trên mặt đất (không di động)

V-750 là đạn tên lửa loại hai tầng, gồm tầng đầu là động cơ phóng sử dụng nhiên liệu rắn và tầng kế tiếp theo là động cơ chính để duy trì quỹ đạo sử dụng nhiên liệu lỏng, đốt acid nitric khói đỏ là chất ôxy hoá và nhiên liệu chính là kerosene. Khi khởi động, động cơ phóng hoạt động trong khoảng 4-5 giây, và động cơ chính trong khoảng 22 giây, tới thời điểm đó tên lửa đã bay ở tốc độ khoảng Mach 3. Tầng động cơ phóng được lắp bốn cánh tam giác lớn với các bề mặt điều khiển nhỏ trên bộ phận lái của chúng, được dùng để điều khiển chống xoay tròn. Tiếp theo là khớp nối tầng với cụm 4 cánh hình tam giác nhỏ hơn nằm gần giữa thân. Tầng động cơ chính cũng có 4 cánh hình tam giác nhỏ hơn tầng đầu một chút, cùng lúc vừa làm nhiệm vụ chống xoay tròn, vừa làm nhiệm vụ lái đạn (được các trắc thủ điều khiển qua sóng vô tuyến cao tần từ xe chỉ huy trung tâm). Cuối cùng, với một bộ bề mặt điều khiển nhỏ hơn ở cực ngoài và (ở hầu hết các model) có các bộ phận thăng bằng nhỏ hơn ở mũi.

Các tên lửa được dẫn đường bằng tín hiệu điều khiển radio từ các máy tính dẫn đường ở trận địa. Các xung điều khiển và phản hồi được truyền dẫn trên ba kênh. Các model SAM-2 ban đầu nhận lệnh điều khiển thông qua hai bộ gồm bốn ăng ten nhỏ ở phía trước bộ phận thăng bằng trước, trong khi các model từ D về sau sử dụng các dải ăng ten lớn hơn chạy giữa các bộ phận thăng bằng trước và giữa. Hệ thống dẫn đường ở một trận địa SAM-2 chỉ có thể giải quyết từng mục tiêu, nhưng có thể hướng ba tên lửa chống lại nó. Các tên lửa khác có thể được phóng chống lại cùng một mục tiêu sau khi một hay nhiều tên lửa đã phóng lúc đầu đã hoàn thành đường bay và kênh radio trống.

Tên lửa thông thường được lắp một đầu đạn phân mảnh 195 kg (430 lb), với các kiểu kích hoạt nổ tiếp cận, tiếp xúc hay chỉ huy. Đầu đạn có bán kính tiêu diệt khoảng 65 m (215 ft) ở các độ cao thấp, ở các độ cao lớn với khí quyển loãng hơn cho phép mở rộng bán kính tiêu diệt lên đến 250 m (820 ft). Tên lửa có độ chính xác khoảng 75 m (250 ft), vì vậy thường phải phóng hai quả tê lửa cùng lúc nhắm vào 1 mục tiêu để tăng xác suất trúng đích.

Một phiên bản, SA-2E, được lắp đầu đạn hạt nhân 295 kg (650 lb) với đương lượng nổ ước tính 15 kt, hay một đầu đạn quy ước với trọng lượng tương tự. Các đầu nổ của đạn V-750 và các phiên bản của chúng đều được lắp hai hệ thống ngòi nổ. Hệ thống ngòi nổ sát thương gồm hai chế độ điều khiển cưỡng bức và tự động, hoạt động vào chế độ điều khiển quỹ đạo của đạn. Hệ thống ngòi nổ tự hủy chỉ có chế độ tự động và chỉ được kích hoạt ở độ cao trên 23 km khi ngòi nổ sát thương không hoạt động. Ở độ cao dưới 1.000 m, ngồi nổ tự hủy hoàn toàn không hoạt động.

Tầm hoạt động thông thường của tên lửa khoảng 30 tới 45 km (20-30 dặm), với độ cao tối đa khoảng 20 tới 25 km (tùy phiên bản tên lửa). Radar và hệ thống dẫn đường có ngưỡng tầm ngắn khá dài, khoảng 500-1.000 m (3,000 ft), khiến chúng kém hiệu quả khi tấn công mục tiêu bay ở độ cao thấp, do đó các trận địa SAM-2 thường được bố trí pháo phòng không ở xung quanh để tự bảo vệ trước các máy bay tầm thấp.

Các tên lửa từ SA-2 Guideline (tất cả các phiên bản SA-75 / SAM-2)

Tên lửaChỉ số của nhà máyTính năng
V-7501DTầm bắn 7 – 29 km, Độ cao bắn 3000 – 23000 m
V-750V11DTầm bắn 7 – 29 km, Độ cao bắn 3000 – 25000 m, Trọng lượng 2163 kg, Chiều dài 10726 mm, Trọng lượng đầu đạn 190 kg, Diameter 500 / 654 mm
V-750VK11DTên lửa đã hiện đại hoá
V-750VM11DMTên lửa để bắn máy bay – máy làm nhiễu
V-750VM11DUTên lửa đã hiện đại hoá
V-750VM11DАTên lửa đã hiện đại hoá
V-750M20ТDKhông có thông tin chi tiết
V-750SM-Không có thông tin chi tiết
V-750VN13DTầm bắn 7 - 29/34 km, Độ cao bắn 3000 - 25000/27000 m, Chiều dài 10841 mm
-13DАTên lửa với đầu đạn mới trọng lượng 191 kg
V-750АK-Không có thông tin chi tiết
V-75313DMTên lửa từ hệ thống SAM hải quân M-2 Volkhov-M (SA-N-2 Guideline)
V-75520DTầm bắn 7 – 43 km, Độ cao bắn 3000 – 30000 m, Trọng lượng 2360 – 2396 kg, Chiều dài 10778 mm, Trọng lượng đầu đạn 196 kg
V-75520DPTên lửa bắn vào tuyến bay thụ động, Tầm bắn 7 – 45 km chủ động, 56 km passive, Độ cao bắn 300 - 30000 (35000) m
V-75520DАTên lửa đã hết giai đoạn bảo đảm và được chuyển đổi thành 20DS
V-755OV20DOTên lửa để thu thập mẫu không khí
V-755U20DSTên lửa với khối lựa chọn để bắn vào mục tiêu độ cao thấp (dưới 200 m), Độ cao bắn 100 - 30000 / 35000 m
V-755U20DSUTên lửa với khối lựa chọn để bắn mục tiêu độ cao thấp (dưới 200 m) và rút ngắn thời gian chuẩn bị phóng tên lửa, Độ cao bắn 100 - 30000 / 35000 m
V-755U20DUTên lửa với thời gian chuẩn bị phóng ngắn
V-7595Ja23 (5V23)Tầm bắn 6 - 56 (hay 60 hay 66) km, Độ cao bắn 100 - 30000 / 35000 m, Trọng lượng 2406 kg, Chiều dài 10806 mm, Trọng lượng đầu đạn 197 – 201 kg
V-76015DTên lửa với đầu đạn hạt nhân
V-760V5V29Tên lửa với đầu đạn hạt nhân
V-750IR-Tên lửa với kíp nổ xung radio
V-750N-Tên lửa thử nghiệm
V-750P-Tên lửa thực nghiệm - với các cánh xoay
V-751KMTên lửa thực nghiệm – phòng thí nghiệm bay
V-752-Tên lửa thực nghiệm - bộ phận phóng ở các bên
V-754-Tên lửa thực nghiệm - với đầu điều khiển bán chủ động
V-75717DTên lửa thực nghiệm - với động cơ phản lực tĩnh siêu âm
-18DTên lửa thực nghiệm - with scramjet
V-757Kr3M10Tên lửa thực nghiệm – phiên bản cho2K11 Krug (SA-4 Ganef)
V-758 (5 JaGG)22DTên lửa thực nghiệm – tên lửa ba giai đoạn, Đầu đạn 3200 kg, Tốc độ 4,8 M (= 1560 m/s = 5760 km/h)
Korshun-Tên lửa mục tiêu
RM-75MV-Tên lửa mục tiêu – cho độ cao thấp
RM-75V-Tên lửa mục tiêu – cho độ cao lớn
Sinitsa-235Ja23Tên lửa mục tiêu

Radar

Radar 'Fan Song'

SAM-2 thông thường sử dụng radar cảnh báo sớm Spoon Rest với tầm hoạt động khoảng 275 km (170 miles). Radar Spoon Rest cung cấp thông tin thám sát sớm về máy bay đang tới và sau đó chuyển nó cho radar thu nhận Fan Song. Những radar này, có tầm hoạt động khoảng 65 km (40 dặm), được dùng để xác định vị trí, cao độ, và tốc độ của máy bay thù địch. Hệ thống Fan Song gồm hai ăng ten hoạt động ở các tần số khác nhau, một cung cấp thông tin về độ cao và chiếc kia thu thập thông tin về góc phương vị. Trụ sở trung đoàn cũng có một radar Spoon Rest, và một radar tầm xa băng C Flat Face và thiết bị dò tìm cao độ Side Net. Thông tin từ các radar này được gửi từ trung đoàn xuống những người điều khiển radar Spoon Rest tại các tiểu đoàn để cho phép họ phối hợp tìm kiếm. Những phiên bản SAM-2 ban đầu sử dụng một radar mục tiêu được gọi là Knife Rest, đã được thay thế trong sử dụng tại Liên Xô, nhưng vẫn được thấy ở những cụm bố trí cũ ở các quốc gia khác.

Các biến thể chủ yếu

Các nâng cấp cho các hệ thống tên lửa chống máy bay thường gồm việc cải tiến cả tên lửa, radar và bảng điều khiển. Thông thường những nâng cấp của tên lửa dẫn tới những thay đổi của các thành phần khác đều lợi dụng ưu thế tính năng mới được cải tiến của nó. Vì thế, khi Liên Xô đưa ra một SAM-2 mới, nó đi kèm với một radar cải tiến để thích ứng với tầm hoạt động và độ cao lớn hơn của tên lửa.

  • SA-2A; SAM-2 Dvina (Двина - Sông Dvina) với radar dẫn đường Fan Song-A và tên lửa V-750 hay V-750V. Việc triển khai đầu tiên bắt đầu năm 1957. Cả tên lửa và bộ phận phóng dài 10.6 m (34.8 ft), với bộ phận phóng có đường kính 0.65 m (25.5 in), và đường kính tên lửa 0.5 m (19.7 in). Trọng lượng phóng là 2287 kg (5,041 lb). Tên lửa có tầm hoạt động hiệu quả 30 km (19 dặm), với tầm hoạt động tối thiểu 8 km (5 dặm) và cao độ đánh chặn trong khoảng 450 và 25,000 m (1,500-82,000 ft).
  • SA-2B; SAM-2 Desna (Tiếng Nga Десна - Sông Desna). Phiên bản này có các radar Fan Song-B cải tiến với các tên lửa V-750VK và V-750VN, đi vào phục vụ năm 1959. Các tên lửa hơi dài hơn các phiên bản A, dài 10.8 m (35.4 ft), vì có bộ phận phóng mạnh hơn. SA-2B có thể chiến đấu với các mục tiêu ở cao độ từ 500 m đến 30 km (1,640-98,450 ft) và tầm hoạt động lên tới 34 km (21 dặm).
Đạn tên lửa V-750 trong tư thế vận chuyển trên xe TZM kiểu Zil-131
  • SA-2C; SAM-2M Volkhov (Tiếng Nga Волхов - Sông Volkhov). Một lần nữa, model mới có một radar cải tiến, Fan Song-C, đi cùng với tên lửa V-750M đã được nâng cấp, được triển khai năm 1961. Tên lửa V-750M có vẻ ngoài giống với V-750VK/V-750VN, nhưng có tính năng tốt hơn với tầm hoạt động lên tới 43 km (27 dặm) và giới hạn độ cao giảm còn 400 m (1,312 ft).
  • SA-N-2A; SAM-2M-2 Volkhov-M: Phiên bản hải quân của model C và được trang bị cho tàu tuần dương lớp Sverdlov Dzerzhinski. Biến thể này nói chung bị coi là không thành công và không được trang bị cho bất kỳ một tàu nào khác.
  • SA-2D; radar Fan Song-E và tên lửa V-750SM. Tên lửa V-750SM khác biệt khá nhiều so với các phiên bản A/B/C vì có các ăng ten mới với một máy dò khí áp mũi dài hơn. Nhiều khác biệt khác ở hộp motor duy trì. Tên lửa dài 10.8 m (35.4 ft), có cùng đường kính thân và đầu đạn như SA-2C, nhưng trọng lượng tăng lên tới 2450 kg (5,400 lb). Tầm hoạt động hiệu quả là 43 km (27 dặm), tầm hoạt động tối thiểu 6 km (4 dặm) và độ cao đánh chặn trong khoảng 250 và 25000 m (820-82,000 ft). Các biện pháp phản công máy bay được cải tiến dẫn tới sự phát triển Fan Song-E với các ăng ten tốt hơn có thể cắt xuyên qua dải nhiễu mạnh.
  • SA-2E: radar Fan Song-E và tên lửa V-750AK. Tương tự như model D, nhưng với một đầu đạn hình củ hành và không có các cánh thăng bằng phía trước. SA-2E dài 11.2 m (36.7 ft), có đường kính thân 0.5 m (19.7 in) và trọng lượng khi phóng 2450 kg (5,400 lb). Tên lửa có thể được trang bị hoặc đầu nổ hạt nhân chỉ huy 15 kt hoặc một đầu đạn HE quy ước 295 kg (650 lb).
  • SA-2F: radar Fan Song-F và tên lửa V-750SM. Sau khi quan sát việc gây nhiễu ở Việt Nam và sự đối phó trong cuộc Chiến tranh Sáu Ngày khiến loại SA-2 hoàn toàn không hiệu quả, các hệ thống hiện hữu nhanh chóng được nâng cấp với một hệ thống radar mới được thiết kế để bỏ qua các nhiễu nhấp nháy (scintillation) băng rộng. Hệ thống chỉ huy cũng gồm một phương thức điều khiển trên nhiễu (home-on-jam) để tấn công máy bay mang theo thiết bị làm nhiễu, cũng như một hệ thống hoàn toàn quang (sử dụng hạn chế) khi chúng không thể hoạt động. Công việc phát triển model F được bắt đầu năm 1968 và được triển khai tại Liên Xô cuối năm đó, trong khi các chuyến tàu chở tên lửa tới Việt Nam bắt đầu cuối năm 1970.
  • SAM-2M Volga (Tiếng Nga С-75М Волга - Sông Volga). Phiên bản từ năm 1995.
  • SAM-2M3 Volga-2 (Tiếng Nga С-75М Волга - Sông Volga). Phiên bản từ năm 2011. Điểm đặc biệt của gói nâng cấp này là hệ thống điều khiển hỏa lực sử dụng một số thành phần kỹ thuật số dùng cho hệ thống phòng không tối tân S-300 PMU1/2, bao gồm:
    • Tự động theo dõi mục tiêu và dẫn hướng cho tên lửa trong môi trường tác chiến điện tử mạnh, khả năng kháng nhiễu điện tử của hệ thống tăng lên 20 lần so với S-75 nguyên bản, có thể chịu được cường độ nhiễu 2.000 W/MHz phát ra từ máy gây nhiễu ở cự ly 100 km.
    • Tăng khả năng bám bắt và chống mục tiêu bay thấp, thời gian từ khi bám bắt mục tiêu đến khi sẵn sàng phóng tên lửa giảm từ 8 giây xuống 3 giây.
    • Đài điều khiển hỏa lực SNR-75M3 nâng cấp có khả năng bám mục tiêu ở cự ly tới 100 km, có dẫn đường cho 2 tên lửa tấn công mục tiêu cùng lúc (trước nâng cấp chỉ dẫn được một mục tiêu).
    • Đạn tên lửa sau nâng cấp có tầm xa tới 60 km, độ cao 27 km (trước nâng cấp chỉ là 45 km và 25 km), xác suất diệt mục tiêu ở cự ly 50 km đạt từ 65-98%. Đầu đạn nổ nặng 195 kg (tăng 30% so với SA-2 nguyên bản), khi nổ tạo ra khoảng 29.000 mảnh vỡ có phạm vi sát thương lên đến 65m ở độ cao thấp hoặc 250m ở độ cao lớn.
    • Giảm 40% lượng điện tiêu thụ nhờ sử dụng linh kiện mới.

Như đã đề cập từ trước, đa số các quốc gia có SAM-2 đã gắn các phần từ các phiên bản khác nhau, từ các hệ thống của một bên thứ ba hay thêm các thành phần được sản xuất trong nước. Điều này đã tạo ra rất nhiều biến thể SAM-2 theo nhu cầu sử dụng của từng nước.

Một HQ-2 trưng bày tại Minsk WorldShenzhen, Trung Quốc
  • HQ-1 (Hồng Kỳ, Cờ đỏ): Phiên bản Trung Quốc của SA-2 với các thiết bị điện tử ECCM để chống System-12 ECM trên những chiếc U-2 do Phi đội Mèo Đen của Trung Hoa Dân Quốc sử dụng.
  • HQ-2: HQ-1 nâng cấp với khả năng ECCM thêm nữa để chống lại System-13 ECM trên những chiếc U-2 do Phi đội Mèo Đen của Đài Loan sử dụng. HQ-2 nâng cấp vẫn còn phục vụ hiện tại, và phiên bản mới nhất sử dụng radar mạng phase được đặt tên định danh SJ-202, có khả năng đồng thời thám sát và chiến đấu với nhiều mục tiêu ở độ cao 115 km và 80 km. Việc đưa vào sử dụng radar đa chức năng SJ-202 đã loại bỏ nhu cầu về nhiều radar với các chức năng riêng biệt, và vì thế cải thiện rất nhiều tính hiệu quả tổng thể của hệ thống phòng không HQ-2. Một phiên bản không người lái được đặt tên định danh BA-6.
  • SA-2 FC: Phiên bản mới nhất của Trung Quốc. Có thể thám sát sáu mục tiêu đồng thời và có khả năng điều khiển đồng thời 3 tên lửa.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: S-75_Dvina http://sites.google.com/site/samsimulator1972/home http://www.militaryparitet.com/nomen/russia/rocket... http://www.pmulcahy.com/PDFs/heavy_weapons/sams.pd... http://www.youtube.com/watch?v=djZGkQAwVKk http://www.pakdef.info/pakmilitary/army/sam/sa2gui... http://www.globalsecurity.org/military/world/russi... http://mdb.cast.ru/mdb/3-2008/item3/article3/ http://pvo.guns.ru/s75/s75.htm http://old.raspletin.ru/produce/adms/s75/ http://baodatviet.vn/quoc-phong/ho-so/phong-khong-...